Thập niên 1950 Chiến_tranh_Lạnh

Mỹ Latinh

Nếu như mục tiêu của Mỹ trong những năm đầu của Chiến tranh Lạnh là ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản, giai đoạn này Mỹ chủ động hơn với việc "đẩy lùi" chủ nghĩa đó. Tuy nhiên, tổng thống lúc bấy giờ, Dwight D. Eisenhower, muốn tránh các đụng chạm với Liên Xô.

Mỹ đã thiết lập các chế độ ủng hộ mình bằng can thiệp quân sự, tài trợ cho phe đối lập hoặc hỗ trợ đảo chính (Mỹ có nhiều đầu tư trục lợi vào kinh tế của các nước Nam Mỹ).

Năm 1954, CIA cho rằng những nhà lãnh đạo của Guatemala ủng hộ chủ nghĩa xã hội, và sau đó Mỹ đã lật đổ chính quyền ở đây (Đảo chính Guatemala năm 1954). Chiến dịch tình báo của CIA hỗ trợ cuộc đảo chính này có mật danh là Operation PBSUCCESS. CIA đã tuyển dụng và đào tạo một đơn vị lính đánh thuê nhỏ dưới sự chỉ huy của một người Guatemala lưu vong tên là Carlos Castillo Armas để chiếm đóng Guatemala, với 30 máy bay Mỹ không mang phù hiệu để hỗ trợ đường không. Đại sứ Mỹ Peurifoy chuẩn bị danh sách những người Guatemala cần xử tử. Cuộc đảo chính dẫn tới việc nhà độc tài quân sự Carlos Castillo Armas lên nắm quyền, người đầu tiên trong một loạt các nhà cai trị độc tài được Hoa Kỳ hậu thuẫn ở Guatemala. Cuộc đảo chánh đã bị chỉ trích rộng rãi trên trường quốc tế và tạo nên tâm lý chống Mỹ lâu dài ở Mỹ Latinh. Cố gắng bào chữa cho cuộc đảo chính, CIA đã khởi động Operation PBHISTORY, tìm kiếm bằng chứng về ảnh hưởng của Xô viết ở Guatemala, nhưng bị thất bại. Castillo Armas nhanh chóng thể hiện quyền lực độc tài, cấm phe đối lập, giam giữ và tra tấn các đối thủ chính trị, và đảo ngược các cải cách xã hội của Cách mạng. Gần bốn thập kỷ của cuộc nội chiến tiếp theo, những du kích cánh tả đã chiến đấu với một loạt các chế độ độc tài thân Mỹ tại Guatemala. Có ít nhất 200.000 người đã bị giết, phần lớn là thường dân. Đỉnh điểm của cuộc chiến là chiến dịch diệt chủngIxil của tổng thống Rios Montt.

Vị thế của Mỹ tại Mỹ latinh bị ảnh hưởng nghiêm trọng sau thắng lợi của Cách mạng Cuba năm 1958 do Fidel Castro lãnh đạo đã lật đổ chế độ độc tài thân Mỹ Fulgencio Batista. Fidel Castro sau đó tuyên bố đưa Cuba đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây dược coi là một chiến thắng của Liên bang Xô viết, với việc họ có được một đồng minh chỉ cách vài dặm từ bờ biển Hoa Kỳ.

Châu Á

Trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai, bán đảo Triều Tiên chịu sự cai trị của Phát xít Nhật. Sau khi Nhật thua trận, theo thỏa thuận giữa 2 bên, Liên Xô tiến quân vào miền Bắc, còn Mỹ tiến quân vào miền Nam Triều Tiên. Tại mỗi vùng đã thành lập riêng rẽ 2 nhà nước khác nhau. Bắc Triều Tiên theo chế độ xã hội chủ nghĩa được Liên Xô hậu thuẫn và Nam Triều Tiên theo đường lối tư bản được Mỹ ủng hộ. Hai miền lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới tạm thời. Năm 1949, Mỹ và Liên Xô rút khỏi Triều Tiên. Theo kế hoạch thì sẽ thành lập chính phủ chung trên cả nước, nhưng Chính phủ 2 miền không công nhận lẫn nhau, và đều tuyên bố mình là chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn nước Triều Tiên.

Sau các căng thẳng ngày càng tăng giữa 2 miền Triều Tiên, tháng 6 năm 1950, Quân đội Bắc Triều Tiên của Kim Nhật Thành tấn công Nam Triều Tiên.[50] Sợ rằng nước Triều Tiên cộng sản dưới sự lãnh đạo của Kim Nhật Thành có thể đe doạ Nhật Bản và cổ vũ các phong trào cách mạng cộng sản khác ở châu Á, Truman ra lệnh cho các lực lượng Hoa Kỳ và với sự giúp đỡ của Liên hiệp quốc phản công lại cuộc tấn công từ Bắc Triều Tiên. Người Liên Xô tẩy chay các cuộc gặp của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc và phản đối việc Hội đồng không giao ghế cho Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và, vì thế, đã không thể phủ quyết việc Hội đồng thông qua hành động của Liên hiệp quốc phản đối cuộc tấn công của Bắc Triều Tiên. Một lực lượng phối hợp của Liên hiệp quốc với các quân nhân của Nam Triều Tiên, Hoa Kỳ, Anh Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Canada, Australia, Pháp, Philippines, Hà Lan, Bỉ, New Zealand và các nước khác cùng ngăn chặn cuộc tấn công[51] Trung Quốc sau đó cũng đã đem quân hỗ trợ Bắc Triều Tiên, khiến cho chiến sự leo thang quyết liệt. Một thoả thuận ngừng bắn được thông qua vào tháng 7 năm 1953, tuy vậy bán đảo Triều Tiên vẫn bị chia cắt cho đến ngày nay.

Eisenhower lên nhậm chức sau khi kết thúc Chiến tranh Triều Tiên. Mỹ viện trợ Pháp trong việc tái xâm chiếm các thuộc địa của họ ở Đông Dương, trong đó có Việt Nam. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kháng chiến quyết liệt và cuối cùng đã đánh bại Pháp. Sau khi Pháp thất bại, Hoa Kỳ nhảy vào thế chân, lập nên chế độ Việt Nam Cộng Hòa để chia cắt Việt Nam. Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại miền Bắc và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại miền Nam để tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ, thống nhất đất nước.

Nội chiến Lào bắt đầu tháng 5 năm 1959 việc Hoa Kỳ tham gia can thiệp vào tình hình Đông Dương.

Trung Đông

Mỹ cũng thực hiện những kế hoạch tại các nước Ả Rập với nguồn dầu hỏa trù phú để các nước này không ủng hộ Liên Xô (năm 1952, cố gắng thiết lập lại chính quyền thân Mỹ).

Mỹ và Anh đã hậu thuẫn cho vụ đảo chính tại Iran năm 1953 nhằm lật đổ thủ tướng Mosaddegh, người đã dám giành lại quyền kiểm soát ngành khai thác dầu mỏ Iran khỏi tay các nước phương Tây. Tình báo Mỹ (CIA) chi hàng triệu USD để mua chuộc các quan chức và trả cho các băng đảng để gây bạo loạn trên đường phố Tehran. Mossadegh cuối cùng cũng bị lật đổ và vua Shah (Mohammed Reza Pahlevi) trở về nắm quyền. Với sự ủng hộ mạnh mẽ từ phía Anh và Mỹ, triều đình Shah trao cho phương Tây các ngành công nghiệp Iran và đàn áp phe đối lập trong tầng lớp tăng lữ Hồi giáo Shia và những người ủng hộ dân chủ. Chế độ của Shah bị nhân dân căm ghét: Quần chúng nhận thức rằng Shah chịu ảnh hưởng lớn - nếu không nói là con rối - của thế lực phi Hồi giáo phương Tây (Hoa Kỳ)[52][53], rằng văn hóa hưởng thụ Hoa Kỳ đang làm ô uế đất nước Iran; rằng chế độ của Shah quá thối nát và ngông cuồng[54][55]. Tất cả dẫn tới cuộc cách mạng Iran năm 1979.

1957, Eisenhower tuyên bố Chính sách Eisenhower, trong đó nói lên rằng Mỹ sẽ dùng vũ trang để "bảo vệ nền tự chủ của một quốc gia hay một nhóm quốc gia ở Trung Đông trước sự đe dọa của các thái độ thù nghịch". Tới cuối thập niên 1950, Tình báo Mỹ đã tiến hành hơn 200 chiến dịch bí mật ở nước ngoài, chủ yếu là can thiệp vào các tiến trình chính trị tại các quốc gia độc lập có xu hướng ủng hộ chủ nghĩa xã hội.

Trong giai đoạn 1948-1982, Mỹ viện trợ tích cực cho Israel tiến hành các cuộc chiến tranh với các nước Ả rập. Israel đã chiếm đóng toàn bộ nước láng giềng Palestine, có những giai đoạn còn chiếm đóng một phần lãnh thổ Ai CậpSyria.

Sự kiện Hungary năm 1956

Sau thế chiến II Hungary trở thành một nhà nước theo thể chế Xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo chuyên chính khắt khe của Thủ tướng Rákosi Mátyás.[56]. Dưới sự lãnh đạo của Mátyás, chính phủ Hungary trở thành một trong những chính phủ hà khắc nhất ở châu Âu.[57][58] Trước những chính sách sai lầm của chính phủ Mátyás, nhân dân Hungary trở nên tức giận.[59] Sự từ chức của Mátyás vào tháng 7 năm 1956 đã khuyến khích sinh viên, các nhà văn và nhà báo trở nên sôi nổi và mạnh dạn chỉ trích chính trị hơn. Trong buổi chiều ngày 23 tháng 10 năm 1956, gần 20.000 người biểu tình[60] Hungary đưa ra một danh sách Các yêu cầu của Cách mạng Hungary năm 1956[61], gồm cả việc bầu cử tự do, các hội đồng độc lập và điều tra các hành động của Stalin và Rákosi tại Hungary. Theo lệnh của Bộ trưởng quốc phòng Liên Xô Georgy Zhukov, xe tăng Liên Xô tiến vào Budapest, nhưng lính Liên Xô có lệnh không được nổ súng[62] Những người biểu tình tấn công vào Toà nhà nghị viện, khiến chính phủ phải sụp đổ.[63].

Chính phủ mới của Imre Nagy lên nắm quyền lực trong cuộc cách mạng đã giải tán cảnh sát mật Hungary, đồng thời tuyên bố ý định rút khỏi Khối hiệp ước Warsaw và cam kết chính sách bầu cử mới. Bạo động nhanh chóng lan ra khắp Hungary, hàng nghìn người tự tổ chức thành các nhóm vũ trang, họ lùng tìm và giết hại các thành viên của Cảnh sát an ninh nhà nước (ÁVH) và binh lính Liên Xô. Các biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản như sao đỏ và các tượng đài tưởng niệm chiến tranh Xô-Đức bị tháo bỏ, và những cuốn sách về chủ nghĩa Cộng sản bị đốt cháy. Những người cộng sản ủng hộ Liên Xô và các thành viên ÁVH thường bị các nhóm vũ trang này hành quyết hay bỏ tù, trong khi những trại giam bị phá và tù nhân được trang bị vũ khí. Nhiều đội vũ trang tự phát nổi lên, như nhóm 400 tay súng do József Dudás chỉ huy, chuyên tấn công hay giết hại những người có thiện cảm với Liên Xô và các thành viên ÁVH.[64]. Một cuộc ngừng bắn được thu xếp ngày 28 tháng 10, và tới ngày 30 tháng 10 hầu hết quân đội Liên Xô đã rút khỏi Budapest về các trại đồn trú ở vùng nông thôn Hungary.[65]

Sau một số cuộc tranh luận, ngày 30 tháng 10 Ban lãnh đạo Liên Xô quyết định không lật đổ chính phủ mới của Hungary. Tuy nhiên sau sự kiện những người phản kháng có vũ trang tấn công biệt đội ÁVH bảo vệ các trụ sở của Đảng Công nhân Lao động Hungary tại Budapest ở Köztársaság tér (Quảng trường Cộng hoà) nhằm trả thù cho những vụ bắn súng vào người biểu tình bởi ÁVH tại thành phố Mosonmagyaróvár [66][67][68] Bộ chính trị Liên Xô chuyển sang lập trường trấn áp cuộc cách mạng với một lực lượng lớn của Liên Xô tiến vào Budapest và các vùng khác của nước này.[69] Ước tính có khoảng 200.000 người bỏ trốn khỏi Hungary,[70] khoảng 26.000 người Hungary bị chính phủ mới của János Kádár (một người thân Liên Xô) đem ra xét xử, trong số đó 13.000 người bị bỏ tù.[71] Imre Nagy bị Tòa án tối cao Hungary tuyên án tử hình cùng với Pál Maléter và Miklós Gimes, sau những phiên toà bí mật tháng 6 năm 1958. Tới tháng 1 năm 1957, chính phủ Hungary đã dập tắt mọi sự đối lập công cộng. Những hành động trấn áp mạnh tay đã khiến nhiều người theo Chủ nghĩa Mác ở phương Tây trở nên xa lánh, tuy vậy nó đã làm tăng cường quyền kiểm soát của các Đảng cộng sản ở mọi quốc gia cộng sản Đông Âu. Động thái của Liên Xô đã khiến nhiều người phương Tây bất ngờ, tuy vậy họ không có hành động gì can thiệp. Việc Hoa Kỳ không hành động đã khiến nhiều người Hungary nổi giận và thất vọng. Chương trình phát thanh của đài Voice of America và những bài phát biểu của Tổng thống Dwight D. Eisenhower và Ngoại trưởng John Foster Dulles trước đó đã gợi ý rằng Hoa Kỳ ủng hộ việc “giải phóng người dân bị giam cầm” ở các nước cộng sản. Tuy nhiên, khi Liên Xô trấn áp người biểu tình ở Hungary, Hoa Kỳ đã không làm gì ngoài việc đưa ra những tuyên bố công khai bày tỏ sự thông cảm với hoàn cảnh của họ[72].

Khủng hoảng kênh đào Suez 1956

Liên quân Vương quốc Anh, Pháp, Israel (với sự hậu thuẫn của Mỹ) tấn công vào lãnh thổ Ai Cập, bắt đầu từ ngày 29 tháng 10 năm 1956.[73][74] Cuộc tấn công diễn ra sau quyết định của Ai Cập về việc quốc hữu hóa kênh đào Suez, và việc Ai Cập công nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (một quốc gia xã hội chủ nghĩa) trong thời kỳ đỉnh điểm căng thẳng giữa Trung Quốc và Đài Loan.[75]

Liên minh giữa ba quốc gia, đặc biệt là Israel, đã khá thành công trong việc tạm chiếm kênh đào Suez, nhưng Liên Xô đe dọa can thiệp quân sự để cứu nguy cho Ai Cập, nếu liên quân không chịu rút lui. Lo ngại chiến tranh leo thang thành cuộc thế chiến mới, Mỹ đe dọa cấm vận kinh tế Israel, cắt nguồn cung dầu cho Anh nếu họ không khỏi khu vực Sinai, đây là điều gây bất ngờ cho Israel, Anh và Pháp, bởi Mỹ vốn là đồng minh của họ.

Tổn thất về chính trị với Anh, Pháp và Israel sau chiến dịch quân sự này là cực kỳ lớn. Quan hệ Anh - Mỹ bị tổn hại nghiêm trọng, trong khi vị thế Liên Xô được tăng cường tại Trung Đông như là một người bảo vệ cho các nước Ả Rập khỏi chủ nghĩa thực dân phương Tây. Thủ tướng Anh Anthony Eden từ chức, Israel miễn cưỡng rút quân. Tổng thống Ai Cập Nasser không bị lật đổ và trở thành anh hùng trong thế giới Arab, và kênh đào Suez vẫn thuộc về Ai Cập.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Lạnh http://archives.cbc.ca/IDD-1-71-274/conflict_war/c... http://www.moreorless.au.com/killers/ceausescu.htm... http://www.bookofhorriblethings.com/ http://www.brill.com/legacy-nuremberg-civilising-i... http://www.britannica.com/eb/article-32981 http://www.cnn.com/SPECIALS/cold.war/ http://www.conelrad.com/ http://www.emadbaghi.com/en/archives/000592.php#mo... http://books.google.com/books?id=SvSZHgAACAAJ&dq=D... http://books.google.com/books?id=WDgBBzWQ2DAC&pg=P...